dc.description.abstract | Nhiễm virus viêm gan B (HBV) và hậu quả lâu dài của nó là một vấn đề lớn của Y tế cộng đồng trên toàn thế giới. Theo ước tính của tổ chức Y tế thế giới (WHO) có khoảng 2 tỷ người đã nhiễm virus viêm gan B (1/3 dân số), trong đó có 350 - 400 triệu người đang nhiễm viêm gan mãn tính. Một số nghiên cứu cho thấy khoảng 1/3 - 1/4 những người nhiễm viêm gan mãn tính có thể xảy ra các biến chứng nặng như viên gan mạn, xơ gan, ung thư gan [8]. Các biện pháp điều trị hiện nay tốn kém và hiệu quả chưa cao. Nguy cơ nhiễm HBV có xu hướng gia tăng liên quan đến tiêm, truyền máu, các sản phẩm thuốc điều trị, hoạt động tình dục, tiêm chích ma tuý. Đã có nhiều nghiên cứu của các tác giả trong nước trên nhiều nhóm đối tượng khác nhau như công nhân, viên chức, người cho máu, phụ nữ có thai cho thấy tỉ lệ mang HBsAg là 8 - 18% và tỉ lệ có anti HBs là 32 - 60%[3], [4]. Đặc biệt đối với các lao động biển là một cộng đồng cùng giới sống độc lập trên tàu cũng đã được nghiên cứu tỉ lệ nhiễm virus viêm gan B là: 54,67%, trong đó tỉ lệ mang kháng nguyên HBsAg là 15,67%, tỉ lệ có anti HBs là 39,67% [2]. Vì vậy vấn đề tiêm vacxin phòng viêm gan B cho các đối tượng này cũng cần được đặt ra. Hiện nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá đáp ứng miễn dịch của các thuyền viên đối với vacxin viêm gan B. Do vậy chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục đích sau đây: Đánh giá khẳ năng đáp ứng miễn dịch của các thuyền viên khu vực Hải Phòng đối với vacxin viêm gan B. Từ đó đề xuất kiến nghị giúp cho việc triển khai tiêm phòng vacxin viêm gan B cho các đối tượng lao động biển. | vi |