Show simple item record

dc.contributor.authorNguyễn Thị Ngân
dc.contributor.authorTrần Thị Quỳnh Chi
dc.contributor.authorTrương Thị An
dc.date.accessioned2023-09-21T08:46:26Z
dc.date.available2023-09-21T08:46:26Z
dc.date.issued2010
dc.identifier.urihttp://lib.vinimam.org.vn:8080/handle/123456789/445
dc.description21cm, tr50-tr62, Kỷ yếu công trình nghiên cứu Y học biển năm 2010.vi
dc.description.abstractTác giả nghiên cứu thực trạng công tác CSSKBMTE - KHHGĐ của một số TÓM TẮT khu vực ven biển và hải đảo thuộc cả 3 miền Bắc - Trung - Nam Việt Nam. Kết quả 1. Thực trạng cơ sở vật chất và trang thiết bị cung cấp dịch vụ CSSKBMTE KHHGĐ cho các khu vực ven biển - hải đảo: 2. Các hoạt động chủ yếu của tại trạm y tế xã vùng ven biển - hải đảo là: cho thấy: + Tuyên truyền giáo dục sức khỏe sinh sản. + Khám, quản lý thai nghén (100%). + Tiêm phòng, cấp phát thuốc vitaminA, sắt, calci (100%). - Những tồn tại + Việc khám quản lý thai nghén hiệu quả chưa cao, thể hiện ở tỷ lệ khám thai đủ 3 lần trong một thai kỳ: 54,4%. 3. Thực trạng về hoạt động cung cấp dịch vụ của Đội lưu động trong thực hiện CSSKSS và KHHGĐ + Trung tâm DS-KHHGĐ trực tiếp quản lý, điều hành cán bộ chuyên trách DS. KHGHGĐ đối với trưởng trạm y tế và chỉ đạo thực hiện chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực DS-KHHGĐ đối với trưởng trạm y tế và cán bộ chuyên trách dân số (100%). y + Trung tâm y tế quản lý trực tiếp về nhân sự và các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ đối với trạm y tế. Trạm y tế quản lý và triển khai thực hiện toàn bộ công tác chuyên môn. + Việc phối hợp thực hiện nhiệm vụ giữa Trung tâm DS-KHHGĐ và Trung tâm y tế của các quận, huyện dưới hình thức tổ chức các Đội lưu động diễn ra thường xuyên 2 lần/năm. Ở khu vực huyện đảo, xã đảo hoặc những xã đi lại khó khăn, xa trung tâm thì việc tổ chức các đội lưu động chỉ được tổ chức 1 lần/năm hoặc có những năm không được tổ chức lần nào. Mặc dù, ngành Y tế đã có rất nhiều cố gắng trong việc trong công tác chăm sóc sức khỏe BMTE và KHHGĐ tại các khu vực biển đảo, như do đặc điểm môi trường, vị trí địa lý có nhiều khó khăn cách trở. Tổ chức mạng luới y tế và nhất là mạng lưới chăm sóc sức khỏe BMTE và KHHGĐ trên các vùng biển đảo còn nhiều bất cập, chưa phù hợp nên chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho BMTE và công tác DS-KHHGĐ. + 100% các trạm y tế tuyến xã chưa đáp ứng được yêu cầu về chăm sÓC SỨC khỏe BMTE và KHHGĐ (mới chỉ thực hiện được biện pháp tránh thai bằng dùng thuốc và đặt vòng. Trang thiết bị sử dụng để chẩn đoán bệnh hầu như không có, trình độ chuyển môn của đội ngũ cán bộ y tế tuyến xã còn hạn chế. + Các khu vực ven biển, hải đảo, đầm phá/ngập mặn, vạn chài là những khu vực thuộc vùng địa lý đi lại khó khăn, trình độ dân trí kém, việc tiếp cận với các dịch vụ CSSK BMTE và KHHGĐ còn nhiều bất cập. SUMMARY THE REALITY OF HEALTH CARE FOR MOTHER, CHILDREN AND FAMILY PLANNING OF SOME AREAS IN COASTAL SEA, ISLANDS OF THE NORTH-CENTRE AND SOUTH OF VIETNAM The authors have researched the reality of health care for mothers, children and family planning of some areas in coastal sea, islands in the North, Centre and South in Vietnam. The results obtain as follow: 1. The reality of materials facilities and medical equipment to take care the health for mothers and children in the coastal areas and islands: have not been enough to take the health effectively for grassroot levels. 2. The main activities of commune medical stations in coastal areas: - Propagandize and education the reproductive health. - Check and manage for pregnant mothers. - Vaccinate, give Vitamin A, Fe, Ca to pregnant mothers. Limitation: The checking and management the pregnant mather's health have not disired effect, only 54% of mothers were examined 3 times in gestation. 3. The reality of providing services of travelling groups to take care the reproductive health and family planning for mothers: Centre of population and planning family managed directly the responsible staff in that field in communes. -Medical centre managed the medical staves and medical activities of Communes. - Centre of population and planning family coordinated with medical Centres of provinces in organizing the travelling groups, who go to communes 2 times/years to take care and examine the health for mothers and children. But in islands or areas, that travel difficulty, only 1 time. - 100% of medical stations of communes have not responded the requirements of taking care and protect the health for mothers and children yet. The island, coastal, salt marsh - lagoon and fishing villages in coastal areas have many difficulties in travelling, cultre standard of the people is not hight, so it effect to provide the services of the health care for mothers and children and family planning.vi
dc.language.isovivi
dc.publisherY họcvi
dc.subjectchăm sóc sức khỏevi
dc.subjectbà mẹ trẻ emvi
dc.subjectkế hoạch hóa gia đìnhvi
dc.subjectVen biểnvi
dc.subjectHải đảovi
dc.titleThực trạng công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình của một số khu vực ven biển và hải đảo ba miền Bắc - Trung - Nam, Việt Namvi
dc.typeWorking Papervi


Files in this item

Thumbnail

This item appears in the following Collection(s)

Show simple item record